Gương mặt tuấn tú của Tống Nghiễn vương đầy máu, hắn nhổ bọt máu xuống đất, vừa định dùng mũi giày giẫm lên cánh tay của thanh niên kia—ta vội vàng lên tiếng ngăn cản.

 

“Tống Nghiễn, hắn là sư phụ của A Từ, đừng động vào.”

 

Bẩm sinh đã kiêu ngạo ngang tàng, làm sao Tống Nghiễn có thể dễ dàng kiềm chế cơn giận. Hắn híp mắt liếc nhìn ta, miễn cưỡng thu chân lại, giọng điệu lạnh lùng: “Đưa hắn đến đại lao của bộ Hình, để quan giám ngục ‘chăm sóc’ hắn thật tốt.”

 

Dứt lời, hắn sải bước đi thẳng về phía biệt viện.

 

Ta vội chặn đám thị vệ lại, nhìn về phía người thanh niên. Hắn yên lặng đứng đó, tay chân bị trói bằng dây thừng thô kệch, nhưng xương mày cao ngạo lại chẳng hề có chút gì gọi là khuất phục.

 

Tựa như hắn không hề để tâm đến những hình phạt sắp giáng xuống.

 

Không kịp suy nghĩ nhiều, ta vội hỏi: “Ngươi tên là gì? Ta sẽ tìm người cứu ngươi.”

 

“Vệ Chương.” Trong tình cảnh hỗn loạn, hắn khẽ thốt ra cái tên.

 

Không hiểu sao, ta lại nghe thấy một nỗi bi thương trong giọng nói ấy.

 

Mùa đông rét mướt, tuyết phủ trắng xóa, kinh thành gánh chịu nạn đói.

 

Bóng dáng thiếu niên quần áo rách rưới trong đêm tuyết năm nào, nay lại trùng khớp với người thanh niên trước mắt.

 

“Vì hồ vì liễn, như ngọc như chương. Ta đã cứu ngươi, từ nay về sau, ngươi hãy gọi là Vệ Chương đi.”

 

“Đúng rồi, ta là A Mẫn của nhà họ Triệu, ngươi phải nhớ kỹ ân nhân cứu mạng của mình đấy.”

 

Giọng nói trong trẻo của thiếu nữ vang vọng bên tai ta, tựa như tiếng chuông chùa ngân nga, mãi không tan.

 

Hóa ra, ta đã quên mất hắn.

 

A Từ tức giận đến đỏ bừng mặt, phẫn nộ bỏ đi.

 

Cơn đau nhức từ hông lan ra khiến mỗi bước đi của ta trở nên khập khiễng. Khi ta lê bước đến biệt viện, tiếng khóc non nớt vang lên khe khẽ.

 

Trời đã ngả về chiều, hay có lẽ, một sinh mệnh mới lại bắt đầu.

 

Tống Nghiễn đón lấy đứa bé quấn trong tã đỏ thẫm từ tay bà vú, đôi mắt hắn tràn ngập sự dịu dàng của một người cha.

 

“Xin lỗi, A Mẫn.”

 

Vừa nhìn thấy ta dựa vào bức tường gạch xám, ánh mắt hắn thoáng hiện lên nhiều cảm xúc phức tạp, cuối cùng chỉ hóa thành một câu xin lỗi ngắn ngủi.

 

“Xuân Kha nói nàng đã lo liệu chu toàn mọi thứ, là ta hiểu lầm nàng và A Từ.”

 

“Đứa trẻ thế nào rồi? Ta muốn bế nó một lát.” Ta khẽ cụp mi, không nhìn hắn, chỉ lặng lẽ nhìn gương mặt nhỏ nhắn của đứa bé trong tã lót.

 

Ai có thể ngờ rằng, vị đại nho thân thể yếu ớt, lại ngây ngốc tin vào thần Phật, từng tự mình leo lên ngọn núi cao vạn trượng để cầu bình an phù cho mẹ kế.

 

Chỉ có con ta—Trường Sinh.

 

“Đứa trẻ còn chưa có nhũ danh.” Trong giọng điệu của Tống Nghiễn thoáng mang chút lấy lòng.

 

Ta nhẹ nhàng vuốt mái tóc tơ mềm mại của đứa bé.

 

“Tiên nhân xoa đỉnh đầu, kết tóc nhận Trường Sinh, vậy gọi là Trường Sinh đi.”

 

Dường như mọi chuyện đã qua đi. Xuân Kha hạ sinh an toàn, Tống Nghiễn cũng đích thân đến xin lỗi A Từ.

 

Dù ta không tiếp hắn, hắn vẫn kiên trì đến cửa mỗi ngày, cố gắng xoa dịu.

 

Nhưng ta biết, ta không thể vượt qua được.

 

Ngọn lửa của nỗi đau và sự ngột ngạt cuồn cuộn thiêu rụi tất cả những gì ta có, xé nát mọi thứ.

 

Còn bốn bức tường trong biệt viện này, vuông vức như một nhà ngục, muốn giam cầm ta cả đời.

 

Tụng Chi dường như đã nhìn thấu suy nghĩ của ta, khi giúp ta vấn tóc, nàng thở dài: “Phu nhân, không có nam nhân nào không phạm sai lầm. Nữ nhân xuất giá thì phải lấy chồng làm trọng, người nên nghĩ thoáng hơn.”

 

Ta gật đầu, nhưng ngay sau đó lại đổ bệnh nặng.

 

Cơn sốt kéo dài khiến ta triền miên trên giường, đến nỗi phải giao Lan Viễn cho nhũ mẫu chăm sóc.

 

Mãi đến một buổi trưa, khi cơ thể đã có chút sức lực, Tống Nghiễn mới dám đến thăm.

 

Đã lâu không gặp, nhìn bóng dáng cao lớn kia, ta bỗng cảm thấy xa cách như đã qua mấy đời.

 

“Đã bệnh thì phải dưỡng cho tốt, có chuyện gì cứ bảo nha hoàn nói với ta.” Giọng nói của Tống Nghiễn cố ý hạ thấp, nhẹ như mây khói, sợ làm ta kinh động.

 

Đôi mắt phượng dài hơi nhướn lên, ánh nhìn tràn đầy hy vọng. Nhận ra tình cảm của hắn không phải là điều khó khăn.

 

Nhưng tình yêu này quá mỏng manh.

 

Giống như một câu chuyện thoại bản, hồi đầu đầy lãng mạn, nhưng lật giở đến giữa lại là cảnh ba thê bốn thiếp, hoang tàn lạnh lẽo.

 

“Không sao, ta đã khỏe hơn nhiều.”

 

Nhìn hắn luống cuống vân vê tà áo, ta lên tiếng: “Nếu Hầu gia không còn giận nữa, thì hãy thả Vệ Chương đi. Hắn chỉ là muốn bảo vệ A Từ, bị phạt như vậy là đủ rồi.”

 

“Được, ta lập tức sai người thả hắn.” Tống Nghiễn đáp ngay, sợ chậm một khắc sẽ khiến ta tức giận.

 

Đối diện với đôi mắt dịu dàng như mặt nước của hắn, ta chậm rãi nở một nụ cười nhẹ nhõm.

 

“Tống Nghiễn, chúng ta hòa ly đi.”

 

Ánh sáng vừa lóe lên trong mắt hắn lập tức vụt tắt.

 

Tống Nghiễn đột ngột ngẩng đầu nhìn ta, khuôn mặt tràn đầy sự khó tin.

 

“Nàng nói gì?”

 

“Ta nói——” Giọng nói hơi run rẩy, ta cố giữ bình tĩnh, kiên định nhìn thẳng vào mắt hắn: “Ta nói, chúng ta hòa—”

 

“Đủ rồi!”

 

Tống Nghiễn cắt ngang lời ta, yết hầu khẽ chuyển động, ánh mắt né tránh, như đang trốn chạy điều gì đó.

 

“A Từ không có hộ tịch ở kinh thành, ta đã đặc biệt chuẩn bị cho hắn một bộ lộ dẫn mới, hắn không cần phải quay về quê để tham gia kỳ thi nữa.”

 

“Ta vẫn chưa nói với phụ mẫu, ngày khác nàng hãy đưa Lan Viễn về thăm nhà, báo tin này để họ yên tâm.”

 

“Biệt viện dù sao cũng quá gần chủ viện, ta đã sắp xếp cho Xuân Kha và Trường Sinh dọn đến hậu viện, nếu không cần thiết, bọn họ sẽ không quấy rầy nàng.”

 

Hắn cứ thế nói một cách rời rạc, càng nói càng nhanh, không để bất cứ ai chen vào.

 

Rồi bất chợt hắn im lặng, nhìn thẳng vào ta, đôi mắt đen láy đã đỏ hoe.

 

“Những ngày tới ta sẽ không đến đây nữa, nàng cứ nghỉ ngơi cho tốt.”

 

Nói xong, hắn rời đi như chạy trốn, loạng choạng bước ra ngoài.

 

Kỳ thi Viện nhanh chóng diễn ra, không ngoài dự đoán, A Từ đỗ Tú tài.

 

Nhưng mọi ánh hào quang đều bị người khác che lấp.

 

Không ai ngờ rằng, một thư sinh nghèo lại có thể vượt lên đứng đầu trong kỳ thi mùa thu. Một bài luận theo thể văn Quán Các, câu chữ sắc bén, thẳng thắn chỉ trích thời cuộc, được hoàng đế tán thưởng hết lời.

 

“Bây giờ sư phụ của thiếu gia đã là Trạng nguyên, sau này thiếu gia cũng có chỗ dựa rồi.”

 

Tụng Chi vừa báo tin vui, vừa đưa tới một gói bánh được bọc trong giấy dầu.

 

“Tiệm sách nhờ người mang đến.”

 

Hơi nóng của bánh chà là thấm qua lớp giấy vàng, bên trong còn kẹp một mảnh thư.

 

“Tuỳ Chi—‘Nam hữu kiêu mộc, cát lũy luỹ chi. Lạc chỉ quân tử, phúc lữ tuỳ chi.’”

 

Ta chậm rãi đọc ra từng chữ.

 

Nét chữ trên giấy thanh mảnh, ngay ngắn, rõ ràng không phải bút tích của A Từ.

 

Tụng Chi giải thích: “Người trong tiệm sách nói, đây là chữ mà thiếu gia nhờ sư phụ đặt cho tiểu thế tử.”

 

Xem ra A Từ đã giao lại việc này cho người khác giúp hắn.

 

Nhớ đến bóng dáng gầy gò như sương lạnh ấy, ta nhìn chằm chằm vào tờ giấy, lòng bỗng trống rỗng không rõ nguyên do.

 

A Từ đỗ Tú tài, cha mẹ liền vội vàng sai người mang bánh ngọt từ Thuận Tường Trai đến.

 

Bánh chất thành một đống như núi nhỏ, ta vừa bật cười vừa thưởng cho đám nha hoàn vài phần, chợt nhớ đến kiếp trước, Xuân Kha trước lúc lâm chung còn thèm đồ ăn của Thuận Tường Trai, liền sai người mang chút bánh đến hậu viện.

 

“Thôi vậy, ta tự mình mang qua đó.”

 

Vừa đến hậu viện, còn chưa bước qua bậc cửa, ta đã nghe thấy tiếng khóc nức nở bên trong.

 

Một nhóm người vây quanh chiếc nôi nhỏ, Xuân Kha quỳ rạp dưới đất, khóc lóc trong tuyệt vọng.

 

“Chuyện gì vậy?”

 

Ta vội vàng bước tới, cúi người——đứa bé nhỏ xíu trên giường đầy những vết phát ban đỏ, thoi thóp khóc yếu ớt, đôi môi nhỏ nhắn tái nhợt như tro bụi.

 

“Phu nhân, xin hãy cứu Trường Sinh, tối qua nó vẫn còn nằm ngoan trong lòng thiếp, vậy mà bỗng nhiên lại thành ra thế này.”

 

Xuân Kha nức nở cầu xin ta, nước mắt giàn giụa.

 

Nhưng đầu óc ta trống rỗng.

 

Dịch bệnh, không thuốc nào có thể cứu chữa.

 

“Hãy mau đi mời đại phu, Tụng Chi, đến kho lấy ít ngải cứu đốt lên.” Giờ chỉ có thể làm vậy.

 

Đại phu đến nơi, nhưng nhất quyết không dám đến gần, chỉ khẩn cầu ta:

 

“Phu nhân, dịch bệnh lây lan chítt người, nhị thiếu gia e rằng…”

 

“Cút!”

 

Xuân Kha đuổi gã đại phu ra ngoài, ôm chặt lấy Trường Sinh, gào khóc thảm thiết.

 

“Trường Sinh của ta——”

 

Dịch bệnh lan tràn quá nhanh, Trường Sinh không phải người đầu tiên mắc bệnh, cũng không phải người cuối cùng.

 

Rất nhanh sau đó, kinh thành chìm trong những tấm cờ tang và tiếng khóc ai oán của những người mất đi thân nhân.

 

Ngay cả bầu trời cũng như nhỏ lệ, mưa rơi thấm ướt con phố dài.

 

Cửa lớn phủ Vĩnh Ân Hầu đóng chặt, Tống Nghiễn nhíu chặt mày, ngày đêm canh giữ bên cạnh Trường Sinh.

 

Dù đã thực hiện mọi biện pháp phòng ngừa, nhưng dịch bệnh vẫn lặng lẽ lan tràn, tựa như một vị Diêm Vương vô hình thu hoạch mạng sống của con người.

 

Cho đến khi bà vú của Lan Viễn khẽ ho một tiếng.

 

Dù ta đã ngay lập tức phản ứng, nhưng đã muộn mất rồi.

 

Lan Viễn nổi ban đỏ ngay trong đêm, cơn sốt cao đến dữ dội, thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả Trường Sinh, hôn mê đến ba bốn lần.

 

Cả phủ náo loạn như ong vỡ tổ.

 

Lan Viễn thở thoi thóp bên giường, Tống Nghiễn đôi mắt đỏ ngầu, một nam nhân sắt đá cũng không kìm được mà rơi lệ.

 

Hắn nắm chặt lấy tay ta, nhưng vẫn không ngừng run rẩy.

 

Từng vị đại phu đến rồi lại rời đi, ai cũng chỉ biết bất lực lắc đầu.

 

Lồng ngực ta như bị khoét một lỗ lớn, gió lùa vào, lạnh đến thấu xương.

 

Ta ôm Lan Viễn vào lòng, nhẹ nhàng dỗ dành, trong tay cầm chặt một chiếc trâm bạc.

 

Kề sát bên tai con, ta thì thầm: “Ngoan nào, nếu con đi, nương cũng sẽ không sống một mình.”

 

Thời gian dài đằng đẵng, mãi vẫn chưa đến bình minh.

 

Bà vú của Trường Sinh vội vã chạy đến, tóc tai rối bù, vẻ mặt đầy do dự nhìn ta, rõ ràng tình hình bên đó cũng không khả quan.

 

Tống Nghiễn áy náy vuốt ve gương mặt nóng bừng của Lan Viễn, rồi đứng dậy đi về phía hậu viện.

 

“Phi! Đến nước này rồi còn đi gọi người? Thiếu gia của chúng ta mới là đích tử.”

 

Tụng Chi tức giận đến đỏ mắt, vừa lau nước mắt vừa nghẹn ngào.

 

Tống Nghiễn khoác trên mình bộ trường bào màu xanh nhạt, trong màn đêm trông như ánh sáng phản chiếu trên tuyết.

 

Nhưng ánh sáng đó, chưa bao giờ chiếu rọi đến ta.

 

Vừa định mở miệng nói gì đó, ta đã cảm thấy khóe mắt cay xè.

 

Bầu không khí im lặng đến chítt chóc lan tỏa khắp nơi.

 

Chiếc ghế mây rộng lớn, đủ để ôm trọn một nữ nhân và một đứa trẻ sơ sinh.

 

Ta cuộn mình trên ghế, ôm lấy Lan Viễn, cảm nhận cơ thể con ngày một lạnh hơn, khẽ chạm vào bàn tay nhỏ bé của con.

 

Nhân gian không phải là nơi tốt đẹp, nương đưa con đến đây, cũng sẽ cùng con rời đi.

 

Ta chậm rãi nhắm mắt lại, cảm nhận từng chút sinh mệnh đang rời khỏi cơ thể.

 

Nhưng đúng lúc này—

 

Tiếng đập cửa vang lên dồn dập.

 

“Cộc cộc cộc——”

 

Âm thanh gấp gáp.

 

Tụng Chi mở cửa, ta ôm con, xuyên qua đám người, nhìn thấy Vệ Chương đứng từ xa.

 

Hắn khẽ dời ánh mắt đi, quanh thân như bao phủ một tầng sương lạnh, đôi mắt trầm lặng chất chứa muôn vàn cảm xúc.

 

Vệ Chương hạ tầm mắt, đưa gói thuốc trong tay cho Tụng Chi: “Thuốc này có thể chữa được dịch bệnh.”

 

Không kịp hỏi nhiều, ta lập tức sai bà vú sắc thuốc.

 

Trong lúc vội vàng, ta bước hụt bậc thang, Vệ Chương nhanh chóng đỡ lấy lưng ta, hơi ấm từ lòng bàn tay hắn xuyên qua lớp áo, truyền đến cơ thể ta.

 

Ta còn chưa kịp phản ứng, hắn đã lập tức thu tay lại, vành tai đỏ bừng như máu.

 

“Xin lỗi.” Giọng hắn nhỏ đến mức gần như không nghe thấy, mái tóc đen nhánh rủ xuống, không dám nhìn ta.

 

Có lẽ vì muốn tự mình kiểm chứng hiệu quả của thuốc, hoặc cũng có thể là vì A Từ nhờ cậy, Vệ Chương không rời đi, mà chỉ lặng lẽ ngồi trên bậc thềm trước phủ, đầu ngón tay gầy gò khẽ vuốt ve lòng bàn tay.

 

Ta không còn đơn độc nữa.

 

Trời rạng sáng, mặt trời ló dạng, ta nghe thấy trong phòng vang lên tiếng khóc yếu ớt của trẻ con.

 

Bà vú vui mừng đến rơi nước mắt, cười tươi chạy ra ngoài: “Bẩm phu nhân, thiếu gia cuối cùng cũng hạ sốt, ban đỏ cũng đã lặn bớt rồi.”

 

Lan Viễn mở to đôi mắt đen láy, áp sát vào lòng ta, rõ ràng đã khỏe lên không ít.

 

Khi ta muốn mở miệng cảm tạ, ngoài cửa đã không còn bóng dáng của Vệ Chương.

 

Số thuốc còn lại trong túi được dùng cho Trường Sinh và những người bệnh khác, chẳng bao lâu sau, tất cả đều hạ sốt.

 

Xuân Kha ôm chặt Trường Sinh, nước mắt giàn giụa, từng bước quỳ lạy ta mà tạ ơn, đầu gối cọ xát xuống nền đất đến mức rướm máu.

 

Tống Nghiễn đứng bên cạnh, không hề ngăn cản.

 

Trong mắt hắn tràn đầy sự áy náy rõ ràng, ta nghiêng đầu tránh đi, đỡ Xuân Kha dậy.

 

“Đều là người một nhà, ta hiểu cô.”

 

“Nghe nói Vệ Chương sau khi dâng phương thuốc lên, hoàng thượng đã đặc biệt phong thưởng, thăng liền ba cấp, trở thành Thiếu khanh của Hồng Lô Tự.”

 

Tống Nghiễn nhìn ta dò xét, nhưng không nói quá rõ ràng.

 

“Vậy thì sao?” Ta bật cười lạnh lẽo, tránh khỏi sự tiếp xúc của hắn. “Chàng nghĩ hắn có tình cảm với ta, hay đang nhắc nhở ta phải đề phòng hắn?”

 

“Hắn là người ngoài, vì sao lại dám mạo hiểm đến phủ Hầu đưa thuốc trước?”

 

Tống Nghiễn đột nhiên nói nhanh hơn, nhưng ngay sau đó lại nhận ra mình thất thố, cố gắng dịu giọng.

 

“A Mẫn, ta không phải không tin nàng, ta chỉ—”

 

“Được rồi.”

 

Nỗi mệt mỏi trong lòng dâng lên, đè nặng đến mức ta không thở nổi, từng đợt sóng dữ nhấn chìm ta vào vực sâu vô tận.

 

Ta khoát tay ngắt lời hắn.

 

“Ta biết mình nên làm gì.”

 

Từ những tháng ngày quấn quýt yêu thương đến lúc đối mặt mà chẳng thể nói với nhau một câu, tất cả chỉ còn lại khoảng cách vô hình.

 

Tống Nghiễn mấp máy môi, cuối cùng vẫn ủ rũ rời đi.

 

Không biết có phải là cố tình né tránh ta hay không, suốt hai tháng liền, hắn lấy cớ bận rộn, không hề trở về phủ.

 

Trái lại, Xuân Kha vì không có phu quân bên cạnh, lại thường xuyên抱 Trường Sinh sang đây.

 

Lần tiếp theo gặp lại, là vào một đêm đầu đông.

 

Bên ngoài phủ vang lên những tiếng bước chân rối loạn, tiếng hét chói tai, tiếng gào khóc, cùng với âm thanh vũ khí chạm nhau. Không xa đó, ngọn lửa từ chùa Trường Minh bùng lên rực đỏ cả một vùng trời.

 

Cửa phòng bị đẩy mạnh, Tống Nghiễn trên người vương đầy vết máu, vội vàng kéo lấy ta.

 

“Hoàng thượng băng hà rồi, các hoàng tử tranh đoạt ngôi vị, biên cương nhân lúc hỗn loạn đã nổi dậy tạo phản, ta phải lập tức đến trấn thủ biên cương.”

 

Hai chữ “vệ quốc” được hắn nói ra vô cùng nặng nề, chính trực và kiên quyết đến mức khiến ta tuyệt vọng.

 

“Kinh thành đã loạn thành thế này, ngay cả nhà cửa còn chưa bảo vệ được, chàng còn muốn bảo vệ giang sơn sao?”

 

Sống mũi ta cay xè, trước mắt phủ lên một màn sương mờ.

 

Tống Nghiễn siết chặt quai hàm, không hề nhượng bộ, đặt một miếng ngọc bội vào lòng bàn tay ta.