1
Ngày chàng dắt nàng ấy vào phủ, ta đang ngồi bên cửa sổ, khâu giày cho chàng.
Tiểu nha hoàn Xạ Duyệt hốt hoảng chạy vào sân, vừa đi vừa lẩm bẩm không ngừng.
Tay ta khựng lại, kim trượt khỏi đế giày, đâm thẳng vào ngón tay.
Máu tức thì trào ra theo vết thương.
Ta cắn răng rút kim, máu chảy men theo đầu ngón, nhỏ xuống mảnh vải trắng, chấm đỏ như hoa mai.
Ánh mắt Xạ Duyệt đầy hoảng hốt, nhưng ta chỉ tiếp tục khâu nốt đường chỉ cuối cùng, đường kim vẫn đều tăm tắp, gọn gàng đến vừa ý.
Chỉ tiếc mảnh vải đã nhuốm máu, đôi giày này cũng coi như uổng công nửa tháng tỉ mỉ.
Ta cuộn đôi giày chưa hoàn thành lại bằng tấm lụa, nhẹ nhàng đặt vào đáy giỏ kim chỉ.
“Thiếu phu nhân… người không sao chứ?”
Xạ Duyệt kéo nhẹ tay áo ta, giọng đầy lo lắng.
Phản ứng quá mức bình thản của ta khiến con bé hoảng hốt, hối hận vì đã vội kể chuyện.
Nó là nha hoàn được ban khi ta vừa gả vào phủ. Tính tình bộc trực, từng giúp ta không ít lần khi ta bị đám hạ nhân chèn ép chỉ vì xuất thân thương gia.
Giờ thấy ta im lặng, không khóc cũng chẳng giận, nó càng thêm bất an.
“Đi xem thử đi,” ta khẽ nói. Thanh âm khàn đặc, thì ra ta cũng không thể giả vờ như không có chuyện gì.
Trong viện, hoa đào đã nở rộ.
Ba tháng trước, khi biên cương có biến, chàng nhận lệnh ra trận.
Khi tiễn chàng đi, ta níu lấy vạt áo, nước mắt rơi lã chã.
Chàng cuống cuồng lau từng giọt một, luống cuống như thiếu niên lần đầu đối mặt với tình cảm.
Phụ mẫu chồng đứng bên chỉ cười cợt, bảo ta ngày thường lạnh nhạt như gỗ đá, hôm nay khóc lóc như vậy cũng ra dáng nữ nhi.
Chàng xấu hổ, kéo ta đến dưới gốc đào, dịu dàng nói:
“Đợi đến khi đào nở, ta nhất định sẽ trở về.”
Nay hoa đào đã nở, chàng quả thực đã trở về – chỉ là mang theo một nữ nhân khác.
Gió xuân thổi qua, cánh đào rơi lả tả, hồng phấn như mộng.
Tại tiền sảnh, phụ mẫu chồng cùng muội chồng đã ngồi đầy đủ.
Thẩm Như Thế đứng cạnh lão gia, còn chiếc ghế vốn thuộc về chàng, lúc này lại có một nữ tử ngồi trên.
Nàng vận hồng y rực rỡ, tóc đen nhánh, môi đỏ mắt sáng, dung nhan rạng rỡ như ánh thái dương nơi cuối chân trời.
Cử chỉ nàng phóng khoáng tự nhiên, trái hẳn với quy củ nơi hậu viện.
Chàng đứng bên cạnh nàng, thần sắc dịu dàng, khiêm nhường – giống như một người hầu trung thành đang bảo vệ khối ngọc quý trong tay.
Thẩm Như Thế vốn là người nhã nhặn trầm ổn, chưa từng biểu hiện sự ân cần đến mức ấy.
Căn phòng đang ríu rít chuyện trò, nhưng vừa thấy ta bước vào liền im bặt.
Như thể sự xuất hiện của ta đã phá vỡ bầu không khí an bình của bọn họ.
Phụ mẫu chồng đưa mắt nhìn nhau, ánh mắt lộ rõ sự lúng túng.
Muội chồng thì cười khẩy, ánh nhìn đầy khiêu khích.
Từ khi ta gả vào phủ, nàng ta luôn cho rằng ta đã cướp mất ca ca nàng, chưa bao giờ ngừng gây khó dễ.
Chỉ cần thấy ta khó chịu, nàng liền hả hê.
Ta lặng lẽ nhìn về phía Thẩm Như Thế.
Chàng đã thay chiến bào, vận một bộ bạch y như thư sinh nơi cửa học, thoạt nhìn nhã nhặn dịu dàng.
Cảm nhận được ánh mắt của ta, chàng chỉ liếc qua một cái, ánh nhìn lạnh nhạt, lướt qua như thể đang nhìn một món đồ cũ đã không còn giá trị.
Ngược lại, nữ tử áo hồng kia lại nhìn ta chằm chằm.
Ánh mắt nàng sáng rực, mang theo vẻ hiếu kỳ như đang chiêm ngưỡng một sinh vật lạ chưa từng thấy.
Xạ Duyệt giận dữ định bước lên mắng, nhưng ta đưa tay ngăn lại.
Nhân đó, ta tiến lên hành lễ với phụ mẫu chồng.
Hai người gật đầu qua loa, ánh mắt lảng tránh.
Mãi đến khi Thẩm Như Thế khẽ mấp máy môi, chàng mới chậm rãi mở lời:
“Đây là Liễu Nhung, ân nhân cứu mạng của ta.”
Chàng nói, khi bị vây nơi núi tuyết suốt bảy ngày, nàng là người đã cùng chàng vượt qua hoạn nạn, nương tựa lẫn nhau sống sót trở về.
Ta rũ mắt lặng nghe.
Bảy ngày sinh tử đổi lấy bảy năm vợ chồng yên ấm – xem ra cũng đáng.
2
Thẩm Như Thế vừa dứt lời, ta khẽ nghiêng mình hành lễ với Liễu Nhung, sau đó lặng yên chờ đợi chàng lên tiếng giới thiệu ta với nàng.
Thế nhưng chàng chẳng nói gì, khiến ta trông chẳng khác nào một vai phụ mờ nhạt giữa vở kịch đang diễn dở, không biết nên lui hay tiến, khiến bầu không khí thoắt cái trở nên gượng gạo.
Phụ thân chồng khẽ ho một tiếng, trong giọng mang chút khiển trách:
“Cô Liễu là ân nhân cứu mạng của Như Thế, cũng tức là ân nhân của cả nhà chúng ta. Con sao không mau cảm tạ người ta đi?”
Lời ấy tuy là nói với ta, nhưng lại chẳng hề nhắc đến thân phận Thiếu phu nhân của phủ họ Thẩm, tựa hồ như việc ta là vợ chính thất lại trở thành điều không dễ mở miệng.
Phu nhân Thẩm cũng chen lời, giục ta sớm nói lời cảm ơn. Bà còn ra hiệu bằng ánh mắt, ý bảo ta nhân cơ hội này khẳng định địa vị bản thân.
Ai nấy đều mong ta mở miệng cảm tạ, nhưng ta chỉ cúi đầu nhìn nền gạch, trong lòng đầy hoài nghi.
Ta rốt cuộc phải cảm ơn điều gì đây?
Là vì nàng ta đã khiến bảy năm tình thâm của ta và Thẩm Như Thế hóa thành mây khói?
Hay bởi nàng ta đã cứu sống một người, song người đó lại không còn là trượng phu của ta?
Xạ Duyệt đứng bên giận đến đỏ mặt, muốn bật lời phản đối. Ta bước lên, nhẹ kéo tay con bé lại, rồi ngẩng đầu hỏi chàng:
“Sau này… cô Liễu sẽ ở lại trong phủ sao?”
Câu hỏi ấy dường như khiến chàng cảm thấy bị xúc phạm. Sắc mặt lập tức trầm xuống, giọng chàng lạnh lùng:
“Nhung nhi mới tới kinh thành, không thân không thích, chẳng lẽ lại để nàng bơ vơ ngoài phố? Sao nàng lại vô tình như thế?”
“Ta vô tình sao?” – ta khẽ nhíu mày – “Nàng không thân không thích, ta hỏi một câu cũng là vô tình ư?”
Lời ta chẳng mang tức giận, chỉ đơn giản là muốn rõ ràng.
Nếu ta thật sự là kẻ bạc bẽo, vậy bảy năm đầu gối tay ấp, chẳng lẽ chàng chưa từng hay biết?
Chàng chẳng qua là muốn thể hiện sự trung thành trước mặt Liễu Nhung mà thôi.
Ta vừa dứt lời, chàng liền nghẹn họng, không đáp được.
Thẩm Mai thấy ca ca bị ta chất vấn liền vỗ bàn đứng dậy, cao giọng:
“Chị Liễu là ân nhân cứu mạng của anh cả! Tỷ lại thờ ơ như vậy, còn ra thể thống gì nữa? Thật làm mất mặt nhà họ Thẩm!”
Phép tắc? – Ta ngẩng đầu nhìn nàng ta.
Trước mặt trưởng bối và khách, dám vỗ bàn mắng người – đó há chẳng phải vô lễ hay sao?
Liễu Nhung bật cười, nhẹ bước tới gần:
“Gặp qua… chị dâu. Ta mới tới kinh thành, chưa quen biết ai, chỉ xin ở nhờ vài ngày, mong chị dâu không để bụng.”
Nàng nói nhẹ nhàng như thể đang dỗ dành một đứa trẻ, giọng nói mềm mỏng mà chứa đầy hàm ý, khiến cái gọi là “thiện ý” càng thêm giả tạo.
“Đây là phủ họ Thẩm, mọi việc đều do lão gia làm chủ.”
Ta cúi đầu đáp, không buồn nhìn ánh mắt thương hại đầy ngụy thiện kia.
Phu nhân Thẩm cười gượng:
“Cô Liễu là khách quý, tất nhiên phải ở lại rồi. Y Y, con chớ nên nghĩ ngợi. Như Thế bình an trở về là chuyện may, thôi nào, cùng ăn bữa cơm đoàn viên.”
“Phải, phải.” – Thẩm lão gia cũng phụ họa.
Bữa cơm tối hôm ấy, là lần đầu tiên trong suốt bảy năm qua có người ngoài ngồi cùng bàn.
Liễu Nhung là nữ tử có cá tính đặc biệt, lời lẽ táo bạo, hành xử tự nhiên, lại biết cách dẫn chuyện.
Ngay cả Thẩm lão gia vốn nghiêm khắc cũng bị những lời kể dí dỏm của nàng ta làm cho bật cười đến mức suýt nghẹn.
Thẩm Mai mắt sáng long lanh, mê mẩn nghe nàng ta kể về những trận chiến hiểm nguy, những ngày tuyết trắng mịt mù.
Phu nhân Thẩm thấy trên cổ tay nàng có một vết sẹo, liền xót xa mãi không thôi.
Liễu Nhung chỉ cười nhẹ, nói không đáng gì.
Thẩm Như Thế cụp mắt, nắm lấy tay nàng, ánh nhìn đầy thương cảm.
Hai vị phụ mẫu liếc nhìn nhau, rồi lại ngó sang ta, ánh mắt đầy lúng túng.
Chàng nói, vết thương kia là do nàng lưu lại khi cứu chàng nơi núi tuyết.
Liễu Nhung rút tay, thản nhiên vỗ lên lưng chàng một cái rõ mạnh:
“Vợ chàng đang nhìn đấy. Làm cái gì thế? Ta đây da dày thịt béo, chẳng yếu ớt như phu nhân nũng nịu của chàng đâu.”
Lời vừa nói ra, bầu không khí lập tức trầm xuống.
Người ngồi nơi đó, thấy khó xử nhất… chính là ta.
Ta chưa từng vì chàng mà bị thương – điều đó, trong mắt họ, dường như lại là minh chứng cho một người vợ thất bại.
“Chị ta sao sánh được với chị Liễu? Chị Liễu biết đánh trận, biết cứu người, còn chị ta chỉ là một kẻ vô dụng ăn bám mà thôi!” – Thẩm Mai lạnh lùng nói.
Thẩm Mai từ trước đến nay luôn lấy xuất thân thương gia của nhà mẹ ta làm điều đáng xấu hổ, chưa từng ngừng lời châm chọc.
Trước kia, Thẩm Như Thế thường lên tiếng che chở ta.
Nhưng hôm nay, chàng chỉ lặng im, thậm chí còn khẽ gật đầu, ánh mắt đầy tán thưởng.
Phu nhân Thẩm vội vàng trách mắng con gái thất lễ.
Thẩm Mai ngẩng cao đầu, chẳng hề nao núng:
“Tôi muốn trở thành nữ tử như chị Liễu, không làm kẻ yếu đuối vô dụng như chị ta!”
Liễu Nhung cười, xoa đầu nàng:
“Con gái phải mạnh mẽ, như vậy mới không chịu thiệt.”
“Đúng vậy!” – Thẩm lão gia cùng phu nhân gật đầu tán thành, ánh mắt đầy tự hào.
Chúng ta ngồi quanh một chiếc bàn tròn, mà lòng ta lại lạnh lẽo tựa như đang đứng nơi cuối gió.
Họ nói gì sau đó, ta cũng không còn nghe rõ nữa.
Đêm ấy, Thẩm Như Thế không trở về phòng.
Dưới ánh trăng, hoa đào nở rực như cảnh trong mộng.
Ta xử lý xong mọi việc, liền lên giường sớm, chẳng có ý định đợi chàng quay về.
Đào đã nở, người đã trở lại – cũng là lúc… có kẻ nên rời đi.
3
Trời chưa sáng hẳn, nha hoàn trong phòng phu nhân Thẩm đã gấp gáp đến tìm ta.
Thì ra, đêm qua Thẩm Như Thế không về phòng, mà ở lại nơi nội viện của phụ mẫu suốt cả một đêm.
Chàng muốn bỏ ta.
Thế nhưng Thẩm lão gia cùng phu nhân đều cực lực phản đối.
Chàng vừa mới lập chiến công, lại được phong thưởng long trọng, nếu lúc này ly hôn, ắt sẽ ảnh hưởng đến tiền đồ quan lộ.
Thẩm Mai – muội chồng – thậm chí còn đưa ra chủ ý:
Tùy tiện tìm một nam nhân nào đó, bịa ra chuyện ta tư thông để ép ta bị trục xuất khỏi phủ.
Lời của nàng ta nói nguyên văn thế này:
“Sở Dĩ Y vốn là con gái nhà buôn, thanh danh có bị hoen ố thì cũng chẳng ảnh hưởng gì. Nhưng nhà họ Thẩm chúng ta là thế gia vọng tộc, danh dự quan trọng hơn cả trời cao.”
Thẩm Như Thế tức giận, đập vỡ cả chén trà men lam trước mặt song thân, lớn tiếng quát:
“Vậy phải làm sao? Chẳng lẽ cứ bắt con giả vờ sống chung với nàng ta mãi, để Nhung nhi chịu uất ức sao?”
Chàng nổi giận như thế, chẳng qua là vì trong lòng đã ngầm đồng thuận với đề nghị kia – đến cả mặt mũi, chàng cũng chẳng cần nữa.
Chỉ bởi yêu một người quá sâu.
Sau cùng, bốn người họ bàn bạc quyết định, sẽ vừa dụ dỗ vừa ép buộc, bắt ta phải chủ động nói lời rời đi.
Nếu ta không chịu, họ sẽ lấy cớ một trong “thất xuất” – rằng ta không thể sinh con – để ép ta thoái thê.
Kỳ thực, ba năm trước, ta từng mang thai một đứa trẻ.
Năm ấy, Thẩm Mai si mê một thư sinh nghèo, nhất quyết đòi gả cho hắn.
Chẳng mấy chốc chán nản, nàng lại muốn rút lui.
Thư sinh ấy đau khổ tìm đến tận phủ, đòi cùng chết để giữ nghĩa.
Ta bước ra thay nàng đỡ một nhát dao, mất đi đứa con máu mủ trong bụng.
Chàng – người mà ta một lòng yêu thương.
Cha mẹ chồng – những người từng tỏ ra yêu quý ta.
Muội chồng – người ta từng hết mực che chở.
Bốn người ấy, nay ngồi lại trong một căn phòng, chỉ để tìm mọi cách tống ta ra khỏi phủ.
Thậm chí, đến cả việc ta từng hy sinh vì họ, cũng bị biến thành lưỡi dao, đâm ta thêm một nhát.
Họ nói, ta không người thân thích trong kinh, chỉ cần ban cho chút lợi lộc là sẽ ngoan ngoãn câm miệng, chẳng thể chống đối nổi nhà họ Thẩm.
Xạ Duyệt nghe xong giận đến đỏ mắt, vừa khóc vừa nắm chặt tay áo ta:
“Thiếu gia năm đó đã cứu mạng nô tỳ, nô tỳ không tin người lại bạc tình đến mức ấy! Tất cả là do nữ nhân tên Liễu Nhung kia giở trò!”
Ta khẽ lắc đầu.
Lòng người đã đổi, thì sớm muộn gì cũng sẽ đổi.
Không có Liễu Nhung, ắt cũng sẽ có Dương Nhung, Tang Nhung hay Quế Nhung.
Chỉ là nàng ta đến đúng lúc, lại chẳng biết liêm sỉ, nên mới thuận lợi chen chân.
Hôm qua, khi dùng bữa, Liễu Nhung từng kể về phong tục nơi quê nhà nàng.
Nàng nói, tại quê nàng, một nam nhân suốt đời chỉ được cưới một người vợ.
Phụ nữ nơi ấy, dẫu chết cũng quyết không chịu làm thiếp.
Nếu có kẻ muốn cưới hai vợ, quan phủ sẽ lập tức trừng trị, vừa phạt tiền vừa đánh roi giữa phố.
Vừa nghe đến đó, Thẩm Như Thế liền nắm chặt tay nàng, ánh mắt sâu lắng dịu dàng như muốn nói:
“Cả đời này, ta sẽ chỉ có một mình nàng.”
Lúc ấy, ta chỉ lặng lẽ cúi đầu.
Một người biết rõ đối phương đã có thê thất, lại vẫn chen chân không chùn bước – vậy thì, quan phủ có bắt không? Có phạt tiền và đánh roi không?
Thẩm Như Thế lập chiến công hiển hách, được hoàng thượng ban cho ngự trù đến phủ thiết yến mừng công.
Khách khứa quyền quý nườm nượp kéo đến chúc mừng. Trong số đó, không ít người nhận ra Liễu Nhung.
Ai nấy đều trầm trồ ca ngợi nàng:
Nàng dùng mưu kế đánh tan giặc mạnh, lại còn chữa khỏi dịch bệnh trong quân doanh.
Ba mươi vạn đại quân, tổn thất hơn phân nửa, mười lăm vạn người chôn thân dưới tuyết – toàn bộ công lao, giờ đây đều đổ hết lên một mình nàng ta.
Thẩm lão gia và phu nhân ngồi ở vị trí chủ tọa, nghe khách khứa tán dương mà mặt mày hớn hở, hệt như phụ mẫu gả được con dâu hiền tài.
Thẩm Mai mắt lấp lánh sùng bái, tựa như đang ngắm nhìn một vị nữ thần nơi trần thế.
Còn Thẩm Như Thế thì bị mê hoặc, nhẹ nhàng kéo nàng ta vào lòng, ánh mắt say đắm như kẻ si tình mới biết yêu lần đầu.
Tựa như mọi người đều thỏa mãn, đều vui mừng… duy chỉ có một người là ta – bị bỏ rơi, bị lãng quên, bị bóp nghẹt trong thế giới lộng lẫy xa hoa ấy.
Một tảng đá đè nặng nơi ngực, dạ dày quặn lên từng cơn, trước mắt tối sầm lại…
Ta không còn hay biết gì nữa.
4
Khi ta mở mắt ra, thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt chính là đôi mắt sưng đỏ vì khóc của Xạ Duyệt.
Vừa thấy ta tỉnh lại, con bé liền lao đến, nắm chặt lấy tay ta, giọng nghẹn ngào:
“Phu nhân… bọn họ quá đáng lắm! Đại phu mà nô tỳ mời đến bị người ta gọi đi xem bệnh cho nữ nhân tên Liễu Nhung rồi! Rõ ràng chỉ là uống rượu quá chén mà thôi…”
Không chỉ bị cướp mất đại phu, Xạ Duyệt còn bị Thẩm Mai tát cho một bạt tai.
Con bé vừa khóc vì uất ức, vừa vì ta mà đau lòng.
Ta ôm lấy con bé, nhẹ giọng dỗ dành:
“Đừng khóc nữa… Ta không sao. Chỉ là… có thai rồi.”
Chắc là đêm trước khi chàng xuất chinh, đêm đó chúng ta quấn quýt lấy nhau, tựa như sinh ly tử biệt.
Khi ấy, ta từng nghĩ, nếu chàng thật sự bỏ mạng nơi sa trường, ít ra ta cũng giữ được một giọt máu của chàng.
Không ngờ… thật sự có một sinh linh bé bỏng đã âm thầm đến với ta.
Xạ Duyệt ngây người trong giây lát, rồi òa khóc vì vui mừng, thoát khỏi vòng tay ta mà reo lên:
“Thật tốt quá rồi! Phu nhân, thật sự là trời thương người tốt!”
Con bé không nói “chúc mừng”, mà là “tốt quá rồi” – bởi vì trong lòng nó biết, đứa con này có thể giữ được vị trí chính thất cho ta, khiến Thẩm Như Thế không thể dễ dàng bỏ rơi ta nữa.
Còn ta thì vẫn giữ vẻ bình tĩnh, song nơi đáy lòng lại lạnh ngắt.
Nếu người đời biết rằng ta phải dựa vào một đứa trẻ để giữ lấy danh phận, e rằng sẽ chê cười ta không tiếc lời.
Ta thật sự phải hèn mọn đến thế sao? Đến mức phải lấy một sinh mệnh yếu ớt… làm tấm khiên cho chính mình?
Trong đầu bỗng hiện lên hình bóng của mẫu thân – người phụ nữ tiều tụy, tay ôm bụng bầu năm xưa.
Bà từng ngẩng đầu nhìn ta, mỉm cười, trong ánh mắt ngập tràn tàn nhẫn cùng bất cam.
Khi đó, bà đang mang thai đệ đệ ta – chính vì cái thai ấy, bà mới có thể giữ được địa vị chính thất trong nhà họ Tô.
Ngoài cửa vang lên tiếng gõ nhẹ.
Là Thẩm Như Thế – chàng đến, mang theo cả đại phu.
Xạ Duyệt lập tức nghênh đón, mời đại phu đến bắt mạch cho ta, còn đứng một bên háo hức trông chờ vẻ lúng túng nơi gương mặt chàng khi biết ta cũng đã mang thai.
Thế nhưng, khi đại phu bước đến, ta lại không đưa tay.
Thay vào đó, ta quay đầu hỏi:
“Liễu cô nương… hiện tại thế nào rồi?”
Thẩm Như Thế khẽ nhíu mày, rồi hạ giọng bảo Xạ Duyệt cùng đại phu lui ra ngoài.
Chàng ngồi xuống trước mặt ta, hít sâu một hơi, tựa hồ đang gắng điều chỉnh sắc mặt – để tỏ ra bản thân còn chút tình nghĩa sót lại.
Chàng định nắm lấy tay ta, nhưng cả hai tay ta đều giấu trong chăn.
Chàng đành siết nhẹ tay mình rồi buông xuống, đặt lên đầu gối, khẽ nói:
“Ta cũng không giấu nàng nữa… Nhung nhi đã có thai, hơn hai tháng rồi.”
Hơn hai tháng.
Mà chàng chỉ rời phủ vỏn vẹn ba tháng.
Khi ta còn từng đêm thao thức vì lo cho chàng, thì chàng lại ôm ấp nữ nhân khác trong lòng, dốc tâm khiến người ta mang thai.
Tình nghĩa bảy năm phu thê, hóa ra nhẹ tựa lông hồng, chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng đủ cuốn bay.
Chàng nhìn ta, ánh mắt rạng rỡ khi nhắc tới đứa trẻ trong bụng Liễu Nhung, tựa như đang chờ ta cùng chung vui – tiếc thay, chàng đã nhầm người.
Thấy ta không phản ứng, chàng ho nhẹ một tiếng, bối rối nói:
“Nàng ấy là ân nhân cứu mạng của ta, ta tuyệt đối không thể phụ nàng.”
Ta gật đầu, mỉm cười:
“Thẩm tướng quân quả thật là người trọng tình trọng nghĩa.”
Chàng tưởng ta châm biếm, sắc mặt lập tức trầm xuống, ánh mắt lạnh lùng nhìn ta chằm chằm.
Thế nhưng ta chỉ yên lặng nhìn lại, trong mắt không hề có nửa phần trào phúng.
Chàng đúng là trọng tình – chỉ là không phải với ta.
Chàng siết chặt nắm tay, tiếp tục nói:
“Nhung nhi là nữ tử đặc biệt, nàng ấy không chấp nhận chia sẻ trượng phu với người khác… Ta không thể để con ta sinh ra mà không có danh phận…”
Nói đến đó, chàng ngừng lại, chỉ nhìn ta chăm chăm, tựa hồ đang chờ ta mở lời.
Ánh mắt ấy mang theo vẻ đương nhiên, như thể nếu ta không hiểu cho chàng, thì chính là ta cố chấp, vô lý.
Nhưng nếu ta thực sự “biết điều”, thì năm xưa đã chẳng dám bỏ hôn ước từ thuở nhỏ, chỉ vì một nụ cười chàng trao cho kỹ nữ nơi đầu phố.
Nếu ta thực sự biết điều, thì đã chẳng một mực kiên quyết, vứt bỏ tất cả, bước vào phủ họ Thẩm với danh nghĩa chính thê.
Ta vốn chưa từng là người như thế.
Vì vậy, ta im lặng.
Biểu cảm của Thẩm Như Thế dần chuyển từ kinh ngạc sang tức giận.
Chàng bất ngờ đứng phắt dậy, bước tới lui trong phòng như thể đang cố kiềm nén lửa giận.
“Tô Di Di, ta không ngờ nàng lại cố chấp, cứng đầu đến vậy! Suốt bảy năm qua nàng không sinh lấy một đứa con, ta có từng oán trách nàng lấy nửa lời không?!”
Chàng trừng mắt nhìn ta, như thể muốn thiêu rụi ta bằng ánh mắt ấy mới có thể hả giận.
“Là Nhung nhi không muốn làm lớn chuyện, mới bảo ta đến khuyên nàng! Nàng đừng giả vờ nhẫn nhịn chịu đựng nữa! Không ai nợ nàng điều gì cả!”
5
Miệng Thẩm Như Thế mấp máy không ngừng, vẻ mặt hằm hằm như thể hận không thể dùng hết thảy lời lẽ cay độc trên đời để trút xuống đầu ta.
Ba tháng trước, chàng nói: “Đợi khi đào trong viện nở rộ, ta sẽ trở về.”
Nhưng người đang đứng trước mặt ta đây… có còn là chàng của ngày đó chăng?
Ánh mắt ấy, lời nói ấy, gương mặt đầy phẫn nộ ấy — tựa như một kẻ xa lạ mà ta chưa từng quen biết.
Sau khi trút giận, chàng thu lại giọng điệu, ngồi xuống bên mép giường, từ tốn nói như thể đang tận tình khuyên giải:
“Nàng thử nghĩ kỹ xem… nàng thật sự thích ta sao? Trước khi thành thân, chúng ta chưa từng gặp mặt. Ta chỉ biết nàng gả cho ta, thì phải đối xử tốt với nàng — đó là trách nhiệm, nhưng không phải là yêu.”
Chàng cúi đầu, giọng nhẹ như gió thoảng:
“Cho đến khi gặp Nhung nhi… nàng ấy nói cho ta biết, hôn nhân cần là sự tự nguyện. Tình cảm giữa ta và nàng vốn do sắp đặt, còn nàng ấy mới là người khiến ta hiểu thế nào là yêu, là hai lòng cùng hướng, là đồng tâm hứa hẹn cả đời… nàng hiểu không?”
Chàng thao thao bất tuyệt kể về mối tình của mình với Liễu Nhung – nào là cùng vượt tuyết núi, nào là đồng cam cộng khổ, nào là mối thâm tình khó gặp giữa đời.
Mỗi một lời, tựa như từng nhát kim châm vào lòng ta.
Đến khi chàng dừng lại, ta mới thản nhiên mở miệng:
“Chỉ cần nói một câu muốn bỏ vợ, vậy mà cũng khó đến thế sao?”
Vẻ mặt Thẩm Như Thế cứng đờ, ánh mắt hoang mang trong chớp mắt liền hóa thành phẫn nộ.
“Tô Di Di! Trong mắt nàng, ta là loại người gì? Là kẻ vong tình, dám vứt bỏ người vợ tào khang ư?!”
Vợ tào khang? Là ta ư?
Ta lấy chàng khi vừa mười sáu, nay mới hai mươi ba tuổi. Chẳng lẽ chừng ấy năm đã đủ gọi là “tào khang”?
“Nếu không phải muốn bỏ vợ,” ta khẽ cười, giọng bình thản, “vậy tướng quân đến đây nói những lời này là vì điều chi?”
Chàng lại á khẩu, không biết đáp ra sao, chỉ phất tay áo đứng dậy, vẻ mặt như bị vạch trần đến chật vật.
Chàng muốn cùng Liễu Nhung bên nhau trọn kiếp, lại không muốn mang danh phụ bạc.
Còn ta – không có lỗi, không sai điều gì – lại phải chủ động mở lời từ hôn, để chàng vừa được người, vừa được danh?
Trước khi đi, chàng còn không quên dẫn đại phu theo.
Chân vừa chạm ngưỡng cửa, chàng ngoái đầu, lớn tiếng quát:
“Miệng lưỡi nàng sắc bén như vậy, e là chẳng mắc bệnh gì được đâu!”
Một người từng được ca tụng là quân tử nho nhã, anh dũng thiện chiến, nay lại giống hệt một kẻ vô lại đầu đường xó chợ.
Đây sao? Đây thật sự là thiếu niên năm ấy, từng vì bênh vực một đứa ăn mày bị đánh đập mà khiến ta cảm động suốt bảy năm ư?
“Phu nhân…”
Xạ Duyệt rón rén bước vào phòng, giọng run rẩy:
“Sao người không nói cho tướng quân biết người đang mang thai? Nếu chàng biết được…”
“Thôi đi.” Ta nhìn ra cửa sổ, khẽ nói.
“Đợi khi trời sáng, hãy tìm một vị đại phu khác. Nhớ, phải là người kín miệng.”
Đứa con này… ta sẽ không giữ lại.
Nhưng thân thể của ta, ta sẽ trân trọng.
“Thiếu phu nhân!” – Xạ Duyệt run rẩy quỳ xuống, nắm lấy tay ta.
Ta không nhìn con bé, chỉ lặng lẽ dõi mắt về phía trời xa.
Một đứa trẻ không được mong đợi, sinh ra chỉ để hứng lấy ánh mắt lạnh nhạt của phụ thân, lớn lên lại bị cuốn vào những cuộc tranh giành với các huynh đệ khác mẹ…
Một đứa trẻ như vậy — sống, sẽ quá mệt mỏi.
Cũng quá đáng thương.
6
Ta vốn đã quyết định bỏ đứa nhỏ, nhưng việc ấy không thể để lộ ra quá rõ ràng.
Vì vậy, trời còn chưa sáng hẳn, ta đã sai Xạ Duyệt lui ra ngoài.
Một mình ngồi bên cửa sổ, không còn việc khâu giày như thường ngày, ta chỉ lặng lẽ chờ ánh bình minh xuyên qua khe cửa, soi rọi vào căn phòng vắng.
Trước kia, ta từng cười nhạo mẫu thân — người đàn bà ấy từng thức trắng đêm, chờ đợi một người sẽ chẳng bao giờ quay về.
Khi ấy, ta thật ngu ngốc, nghĩ rằng lòng thủy chung của bà là vô nghĩa.
Vậy mà hôm nay, bóng dáng ta… lại giống bà đến vậy.
Chẳng lẽ vận mệnh cũng có thể di truyền?
Hay là… ta đã làm quá nhiều điều sai trái, nên giờ đây chỉ là quả báo?
Liễu Nhung tới.
Nàng mang theo bốn nha hoàn, đi trước gọi sau, khí thế rình rang như thể là chủ nhân của nơi này.
Thẩm Như Thế lần đầu làm phụ thân, luống cuống đến nỗi khiến người ta vừa buồn cười vừa khinh bỉ.
Liễu Nhung không hề bận tâm đến ánh mắt cung kính của đám nha hoàn.
Nàng ta bước thẳng vào phòng, ngồi xuống giữa phòng ta, vẻ mặt thản nhiên như thể nơi này vốn thuộc về nàng.
Ta đứng dậy, hành lễ chào hỏi, nàng ta chẳng buồn đáp lại, chỉ chậm rãi đưa mắt nhìn quanh một vòng.
Cuối cùng, ánh nhìn đậu lại trên người ta — đầy giễu cợt và thương hại, cao ngạo như thể đang đứng trên cao nhìn xuống.
“Đại ca Thẩm vì nước vì dân mà đánh trận nơi xa, còn ngươi thì ngồi đây nhàn nhã hưởng phúc. Sống vậy không thấy trống rỗng à?”
Trống rỗng ư?
Có chứ.
Nhưng năm xưa, chính phu nhân Thẩm đã dạy ta rằng: con dâu nhà thế gia không được ra ngoài lộ diện, không được làm trái lễ nghi.
Còn Thẩm Như Thế, trước khi khoác chiến giáp lên người, chẳng cũng sống an nhàn như ta sao?
Ta không tranh cãi với nàng.
Tranh cãi trước mặt hạ nhân, chỉ khiến người ta chê cười.
Thấy ta im lặng, nàng ta càng lấn tới, giọng đắc ý rõ ràng:
“Ta và đại ca Thẩm là yêu nhau tự nguyện, là tình cảm chân thành. Ngươi và chàng là hôn nhân sắp đặt, không có tình cảm.”
Phải, phải, phải.
Câu ấy chưa qua nổi mười hai canh giờ, ta đã phải nghe đến hai lần.
Đủ khiến người ta muốn bịt tai lại.
Bảy năm phu thê, ta và Thẩm Như Thế không phải vợ chồng khách sáo.
Từng cãi cọ, từng giận dỗi, từng lạnh nhạt, từng hòa giải — vượt qua hết thảy, tình cảm ngày một sâu.
Tình cảm mà ta từng nâng niu, từng giữ chặt — giờ lại bị chính chàng và nữ nhân này thản nhiên phủ nhận.
Không chỉ phủ nhận, còn muốn ta hiểu, muốn ta thông cảm, muốn ta nhường lối cho cái gọi là “chân ái” của họ.
Dựa vào đâu?
Ta nhìn nàng ta, cố kìm nén lửa giận trong lòng.
Liễu Nhung bật cười, như thể ta tức giận là chuyện nực cười nhất trên đời:
“Tô Di Di! Đừng xem ta là kẻ xấu. Trong hôn nhân, kẻ không được yêu mới là người thứ ba, hiểu chưa? Ta và đại ca Thẩm chỉ đang theo đuổi tình yêu chân chính. Chúng ta không nợ cô gì cả!”
Không nợ ta?
Phải rồi.
Thẩm Như Thế phụ bạc, không nợ ta.
Liễu Nhung chen chân vào hôn nhân người khác, cũng không nợ ta.
Chỉ có ta là sai.
Sai vì không biết điều, không biết rút lui.
Ta nên chủ động xin từ hôn ngay khi nàng ta bước vào phủ.
Nên giống một con chuột, chui rúc vào bóng tối rồi biến mất không một tiếng động.
Như thế, mới xứng danh “vợ tào khang” — biết thân, biết phận.
Ta ngẩng đầu, giọng lãnh đạm:
“Nếu đã tin mình không sai, thì cần gì phải nói nhiều như vậy? Đừng sợ người khác nghĩ mình chột dạ.”
Một lời, vạch trần nàng ta không chút lưu tình.
Một mặt rao giảng về ‘một đời một kiếp một đôi người’, một mặt lại chen vào mối duyên của người khác — thật khiến người ta thay nàng mà xấu hổ.
Sắc mặt Liễu Nhung tái đi, nàng đập bàn đứng bật dậy:
“Cô bị điên à? So với việc bị bỏ rơi, tự mình rút lui, ngẩng đầu mà đi chẳng phải càng khí phách hơn sao?”
Ba tháng xa cách, mới ra chiến trường đã thay lòng, lén lút thông dâm, khiến người khác có thai — người đó không phải ta.
Chưa cưới đã mang thai, còn ngang nhiên bước vào phủ — người đó cũng không phải ta.
Nay lại muốn ta cúi đầu xin từ hôn, để họ có thể đường hoàng yêu nhau, danh chính ngôn thuận?
Dựa vào đâu?
Ta đáp, từng chữ rõ ràng:
“Ta không làm gì sai, vì sao phải xin từ hôn?”
Nói xong, ta quay đầu, không buồn liếc nàng thêm lần nào nữa.
Ta không thể vì một người như nàng mà đánh mất lòng kiêu hãnh của chính mình.
“Trời ạ! Cô đúng là không biết điều!” – nàng hét lên.
“Đại ca Thẩm đã nói rõ là không còn yêu cô nữa. Cô còn ở lại làm gì? Anh ấy biết cô không có nơi để đi, nên mới tốt bụng thu xếp cho cô. Sau khi hòa ly, cô có thể dọn sang Tây Viên, vẫn ăn mặc như cũ. Không ai đuổi cô ra đường đâu!”
Ta vẫn giữ vẻ mặt bình thản.
Nhưng dưới lớp tay áo, ngón tay đã siết chặt đến rớm máu.
Không nơi để về? Phải lo bị đuổi khỏi phủ?
Thì ra, trong mắt Thẩm Như Thế, ta chẳng khác nào kẻ ăn mày, đang chờ chàng ban phát chút bố thí.